Đà Nẵng: Kiểm kê rừng để bảo vệ rừng

Admin
Tổng diện tích kiểm kê rừng của thành phố năm 2016 là 66.409,4 ha, trong đó, rừng phòng hộ chiếm 8.938,3 ha, tương ứng 13,5% diện tích kiểm kê rừng; rừng đặc dụng chiếm 31.081,3 ha, chiếm 46,8% diện tích kiểm kê rừng; rừng sản xuất chiếm 17.369,8 ha, chiếm 26,2% diện tích kiểm kê rừng; và 9.020 ha rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp, chiếm 13,5% diện tích kiểm kê rừng.

 Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT, năm 2016, tổng diện tích kiểm kê rừng của thành phố Đà Nẵng là 66.409,4 ha

Hoàn thành công tác kiểm kê rừng

Đó là số liệu từ kết quả điều tra, kiểm kê rừng năm 2016 của Sở Nông nghiệp và PTNT TP. Đà Nẵng. Theo báo cáo kết quả kiểm kê, Đà Nẵng có 43.722,1 ha rừng tự nhiên là rừng thứ sinh; 12.568,1 ha rừng trồng, bao gồm rừng trồng mới trên đất chưa có rừng, rừng trồng lại sau khai thác, rừng tái sinh chồi; 10.119,3 ha đất chưa có rừng, gồm một số loại như đất mới trồng chưa thành rừng, đất có cây gỗ tái sinh, núi đá, đất có cây nông nghiệp...

Thống kê theo địa bàn hành chính, huyện Hòa Vang có 58.470,6 ha, chiếm 88,19% diện tích kiểm kê; quận Cẩm Lệ có 189,8 ha, chiếm 0,29% diện tích kiểm kê; quận Liên Chiểu có 3.957,7 ha, chiếm 5,95% diện tích kiểm kê; quận Ngũ Hành Sơn có 13,2 ha, chiếm 0,02% diện tích kiểm kê; quận Sơn Trà có 3.778,2 ha, chiếm 5,55% diện tích kiểm kê.

Tổng trữ lượng rừng gỗ kiểm kê là 9.919.591 m3, trong đó, trữ lượng rừng tự nhiên chiếm 90% và trữ lượng rừng trồng chiếm 10%. Độ che phủ rừng theo kết quả kiểm kê rừng toàn thành phố năm 2016 đạt 43,6%, cao hơn mức trung bình của cả nước là 40,84%.

Công tác điều tra, kiểm kê rừng năm 2016 đã tạo được bộ dữ liệu đầy đủ nhất về rừng và chủ rừng trên toàn thành phố, tích hợp đồng bộ với cơ sở dữ liệu của cả nước, chi tiết đến từng lô rừng với các đặc điểm như: diện tích, trữ lượng, loại đất, loại rừng, chủ rừng, đơn vị hành chính và đơn vị quản lý rừng, tình trạng sở hữu, sử dụng rừng, tranh chấp đất đai...; thống nhất giữa bản đồ và số liệu, giữa ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn với ngành tài nguyên môi trường trên cơ sở kết hợp thông tin thu được từ ảnh vệ tinh độ phân giải cao với điều tra thực địa.

Ngoài ra, kết quả kiểm kê rừng còn tạo được cơ sở dữ liệu trong hệ thống quản lý thông tin ngành lâm nghiệp (FORMIS), là tiền đề cho quy hoạch rừng, theo dõi diễn biến rừng, nghiệm thu và thanh toán chi trả dịch vụ môi trường rừng, tổ chức phòng cháy chữa cháy rừng, phòng trừ dịch bệnh cây rừng, thực hiện giao đất giao rừng, thuê rừng.

Bên cạnh đó, đã phát hiện, giải quyết nhiều bất cập của dữ liệu về rừng đã tồn đọng trong lịch sử giao đất, giao rừng như ranh giới, chủ rừng, diện tích, trữ lượng..., qua đó tiếp tục giải quyết những vấn đề phức tạp của quản lý rừng và đất lâm nghiệp ở các địa phương như rà soát quy hoạch 3 loại rừng, giao đất, giao rừng, xử lý tranh chấp về rừng và đất rừng.

 Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng chỉ đạo các đơn vị cần sử dụng hiệu quả các số liệu kiểm kê rùng để bảo vệ và phát triển rừng

Tuy nhiên, do ảnh vệ tinh độ phân giải cao theo yêu cầu điều tra rừng không đồng bộ về thời gian, loại ảnh làm phát sinh thêm thời gian, công thu thập thông tin hiện trường để xây dựng mẫu khóa ảnh.

Công trình được bố trí bằng vốn địa phương và thực hiện theo quy trình lựa chọn nhà thầu thi công nên mất nhiều thời gian làm chậm tiến độ kiểm kê.

Dùng kết quả điều tra rừng để quản lý rừng hiệu quả

Tại hội nghị công bố kết quả điều tra, kiểm kê rừng, Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Hồ Kỳ Minh đề nghị, để sử dụng hiệu quả thành quả điều tra, kiểm kê rừng, UBND các quận, huyện tiếp tục thực hiện tốt trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp theo phân cấp của Thủ tướng Chính phủ và của UBND thành phố; chỉ đạo, phân công trách nhiệm cho UBND các xã, phường tổ chức tiếp nhận thành quả kiểm kê rừng để tổ chức khai thác, sử dụng, phục vụ tốt cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương.

Phó Chủ tịch Hồ Kỳ Minh cũng giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm thường xuyên thực hiện cập nhật biến động về rừng và đất lâm nghiệp vào cơ sở dữ liệu và hồ sơ quản lý rừng các cấp hành chính và chủ rừng; thực hiện hiệu quả hệ thống thông tin quản lý ngành lâm nghiệp (FORMIS) theo Quyết định số 589/QĐ-BNN-TCLN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đồng thời, yêu cầu các sở, ngành, địa phương có kế hoạch sử dụng thành quả kiểm kê rừng làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá xây đụng các cơ chế, chính sách, chương trình, đề án, dự án của ngành và địa phương gắn với các chương trình, đề án, dự án của lâm nghiệp thành phố theo hướng phát triển hài hòa và bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.