Trong nước

Giao quyền cho Thủ tướng Chính phủ ứng phó linh hoạt tình trạng khẩn cấp

Chiều 27/5, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình bày Tờ trình dự án Luật Tình trạng khẩn cấp, gồm 6 chương, 42 điều.

Phân cấp, phân quyền trong ứng phó tình trạng khẩn cấp

Dự án Luật Tình trạng khẩn cấp quy định về phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp; áp dụng Luật Tình trạng khẩn cấp và các luật có liên quan; các hành vi bị nghiêm cấm; hợp tác quốc tế về tình trạng khẩn cấp)...

Đại tướng Phan Văn Giang cho biết, Luật quy định: "Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề nghị của các bộ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp. Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp ngay thì Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương".

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang. (Ảnh: Media Quốc hội)

Luật cũng quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn về thiên tai, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ và hạt nhân, dịch bệnh, trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, về quốc phòng; các biện pháp khắc phục hậu quả; huy động nguồn lực, cứu trợ, hỗ trợ; chế độ, chính sách đối với tổ chức, cá nhân tham gia ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp.

Đáng chú ý, Dự thảo Luật quy định điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp; trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ; biện pháp xử lý người bị tạm giữ; lực lượng thi hành trong tình trạng khẩn cấp; áp dụng pháp luật về điều kiện bất khả kháng.

"Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động lực lượng thuộc quyền đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn, dịch bệnh để hỗ trợ các lực lượng tại chỗ cứu hộ, khắc phục hậu quả của thảm họa, dịch bệnh hoặc để ổn định, duy trì an ninh và trật tự, an toàn xã hội", Đại tướng Phan Văn Giang cho biết.

Nhằm phân cấp, phân quyền và bảo đảm linh hoạt để ứng phó kịp thời với các tình huống trong tình trạng khẩn cấp, Luật quy định: "Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025".

Giao quyền cho Thủ tướng Chính phủ ứng phó linh hoạt tình trạng khẩn cấp

Thẩm tra dự án luật, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại cho biết, về việc phân quyền, phân cấp áp dụng các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp, Ủy ban tán thành với quy định giao quyền cho Thủ tướng Chính phủ như Tờ trình nêu.

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp (Điều 9), có ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 2 dự thảo Luật xác định tình trạng khẩn cấp sẽ được áp dụng khi các biện pháp phòng thủ dân sự (PTDS) cấp độ 3 không đáp ứng được. Nhưng khoản 1 Điều này lại xác định "Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội...", nên chưa thống nhất. Do vậy, Ủy ban đề nghị nghiên cứu, làm rõ căn cứ để ban bố tình trạng khẩn cấp.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại Lê Tấn Tới cũng nêu rõ, ở Khoản 6, có ý kiến cho rằng, nội dung này là nội luật hóa quy định của Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, Bộ Tư pháp được Chính phủ giao chủ trì thực thi Công ước về quyền dân sự, chính trị. Do đó, đề nghị nghiên cứu chuyển nội dung khoản này về điều, khoản quy định trách nhiệm của Bộ Ngoại giao.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại Lê Tấn Tới. (Ảnh: Media Quốc hội)

Về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp (Chương III), Ủy ban nhận thấy, quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp là rất quan trọng, tạo tính thống nhất để áp dụng khi xảy ra tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, dự thảo Luật quy định 4 nhóm biện pháp áp dụng tương ứng với 4 dạng tình trạng khẩn cấp (Điều 13 tới Điều 16) lại khác với cách phân loại tình trạng khẩn cấp tại Điều 2 (giải thích từ ngữ), do đó đề nghị nghiên cứu để quy định các biện pháp áp dụng cho phù hợp với phân loại về tình trạng khẩn cấp, bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ, khả thi.

Về các chính sách, biện pháp hỗ trợ (Điều 22), Ủy ban cho biết, có ý kiến đề nghị luật chỉ quy định chung về cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt và giao, phân cấp cho Thủ tướng Chính phủ, chính quyền địa phương hỗ trợ cho người dân, cộng đồng, doanh nghiệp bị ảnh hưởng trong tình trạng khẩn cấp, hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết.

Ủy ban cũng nhất trí với quy định giao thẩm quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định hoặc khác với quy định của pháp luật hiện hành bảo đảm linh hoạt trong việc ứng phó, xử lý các tình huống phức tạp tại địa phương, nhưng cần rà soát để đảm bảo thống nhất, đồng bộ với Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Tác giả: Lê Hoàng

Nguồn tin: Báo VOV

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP