Chứa nhiều hoạt chất quý
“Nghiên cứu công nghệ sản xuất một số sản phẩm trà tan từ lá và nụ vối” là sản phẩm do PGS.TS Trần Thị Hằng và cộng sự Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì thực hiện. Theo nhóm nghiên cứu, người tiêu dùng đang ngày càng chăm lo và chú trọng tới sức khoẻ, nhu cầu sử dụng đồ uống lành mạnh, có lợi sức khoẻ ngày càng tăng. Thị trường đồ uống tốt cho sức khỏe có nguồn gốc từ thiên nhiên cũng là một trong những thị trường phát triển nhanh nhất trên thế giới.
Cây vối với tên khoa học là Cleistocalys operculatus Roxb., được phân bố rộng rãi ở Việt Nam, Trung Quốc và các nước nhiệt đới khác. Theo dân gian, lá và nụ vối được sử dụng làm trà thảo mộc với tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hỗ trợ điều trị cảm, sốt, viêm nhiễm, rối loạn tiêu hóa,....
Ngoài ra, lá và nụ vối còn được sử dụng hỗ trợ chữa viêm xoang, cảm lạnh, hen xuyễn, viêm phế quản, có khả năng hỗ trợ đào thải acid uric, từ đó có tác dụng hỗ trợ điều trị và phòng ngừa bệnh gout hiệu quả.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, dịch chiết lá và nụ vối có tác dụng kháng khuẩn, chống oxy hoá, chống ung thư, kiềm chế sự phát triển của khối u, chống hạ đường huyết, chống béo phì... Hiện nay, lượng người sử dụng trà được nấu trực tiếp từ lá và nụ vối ngày một tăng, trong các nhà hàng, hội nghị nước lá vối, nụ vối được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây.
Nếu có sản phẩm trà tan lá vối và nụ vối giữ nguyên hương vị thì sẽ rất thuận tiện cho người tiêu dùng, đa dạng hóa sản phẩm đồ uống trên thị trường, góp phần bảo vệ sức khỏe con người.
Nhóm nghiên cứu đã đưa ra được quy trình công nghệ sản xuất cao đặc, cao khô lá vối và nụ vối, các sản phẩm giữ được hương thơm đặc trưng của lá vối và nụ vối với hàm lượng các chất
phenolic và flavonoid cao. Quy trình sản xuất các sản phẩm cao lá vối và nụ vối là hoàn toàn không sử dụng dung môi hữu cơ hay các loại hoá chất khác, do đó đảm bảo an toàn đối với người sử dụng, không gây ảnh hưởng tới môi trường, hệ sinh thái. Nước sau cô đặc của các sản phẩm cao lá vối và nụ vối được hoàn lưu hoặc có thể sử dụng vào mục đích khác, nên không tạo ra nước thải.
PGS.TS Trần Thị Hằng cho biết, tất cả các sản phẩm trà tan lá vối và nụ vối đều đảm bảo an toàn về chỉ tiêu vi sinh vật, chất bảo vệ thực vật, ion kim loại nặng, đảm bảo độ ẩm, độ tro theo quy định.
Hoạt tính chống oxy hóa trên của cao đặc và cao khô nụ vối lần lượt là 20,36 và 24,94 µg/mL, cao đặc và cao khô lá vối lần lượt là 37,33 và 41,85 µg/mL, của quercetin là 9,8 µg/mL. Kết quả này khẳng định cao lá vối và nụ vối đều thể hiện hoạt tính chống oxy hoá.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, cao nụ vối thể hiện hoạt tính chống oxy hoá cao hơn cao lá vối; cao đặc thể hiện hoạt tính chống oxy hoá cao hơn so với cao khô. Đặc biệt, hoạt tính ức chế enzym α-glucosidase của cao đặc lá vối và nụ vối khá cao (giá trị IC50 lần lượt là 12,00 và 15,45 µg/mL), cao hơn nhiều so với chất đối chứng acarbose (giá trị IC50 là 221,09 µg/mL).
Tuy nhiên, hoạt tính ức chế enzym α-glucosidase của cao khô thấp hơn nhiều so với cao đặc, nhưng vẫn cao hơn so với chất đối chứng acarbose (giá trị IC50 của cao khô lá vối và nụ vối lần lượt là 77,71 và 136,83 µg/mL).
Cả hoạt tính chống oxy hoá và hoạt tính ức chế enzym α-glucosidase của cao đặc đều cao hơn so với cao khô, có thể là do cao khô bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ trong quá trình sản xuất bằng phương pháp sấy phun.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất trà tan lá vối và nụ vối còn thu hồi được tinh dầu. Tinh dầu lá vối thể hiện hoạt tính kháng khuẩn Pseudomonas aeruginosa cao hơn so với cefotaxime nồng độ 100 µg/mL (đường kính vòng kháng khuẩn của tinh dầu lá vối là 32 mm, của cefotaxime nồng độ 100 µg/mL là 22 mm).
Từ các kết quả này, nhóm nghiên cứu hy vọng các sản phẩm từ lá vối và nụ vối là sản phẩm đầy hứa hẹn, tiềm năng, hữu ích về chống oxy hoá, phòng và chống bệnh tiểu đường và các loại bệnh khác.