Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 năm 2016

Lợi Trần
Tháng 10 sản xuất nông nghiệp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ gieo trồng các loại cây vụ Đông, thu hoạch lúa mùa và trồng cây lâu năm 2016. Nhìn chung tiến độ sản xuất vụ đông năm nay chậm và đạt thấp so với kế hoạch đề ra, nhất là diện tích ngô trên đất 2 lúa, nguyên nhân do thời tiết diễn biến khó lường, tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sản xuất, sản phẩm vụ đông giá thấp, khó tiêu thụ, hiệu quả sản xuất thấp làm ảnh hưởng đến tâm lý bà con nông dân không mặn mà cho vụ sản xuất này. Tính đến 12/10/2016 tổng diện tích gieo trồng cây vụ Đông ước đạt 27266 ha, bằng 59,53% kế hoạch đề ra, cụ thể:

1, Sản xuất nông nghiệp

a, Trồng trọt:

Tháng 10 sản xuất nông nghiệp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ gieo trồng các loại cây vụ Đông, thu hoạch lúa mùa và trồng cây lâu năm 2016. Nhìn chung tiến độ sản xuất vụ đông năm nay chậm và đạt thấp so với kế hoạch đề ra, nhất là diện tích ngô trên đất 2 lúa, nguyên nhân do thời tiết diễn biến khó lường, tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sản xuất, sản phẩm vụ đông giá thấp, khó tiêu thụ, hiệu quả sản xuất thấp làm ảnh hưởng đến tâm lý bà con nông dân không mặn mà cho vụ sản xuất này. Tính đến 12/10/2016 tổng diện tích gieo trồng cây vụ Đông ước đạt 27266 ha, bằng 59,53% kế hoạch đề ra, cụ thể:

Cây ngô diện tích gieo trỉa ước đạt 16000/27000 ha, bằng 59,26% kế hoạch đề ra và giảm 3,73% so với cùng kỳ năm trước. Phần lớn ngô đông được gieo trỉa tập trung chủ yếu ở các huyện có điều kiện thâm canh như Diễn Châu; Yên Thành; Nghi Lộc; Quỳnh Lưu; Thanh Chương; Nam Đàn; Đô Lương … Quỹ thời gian vụ đông tương đối dài nên các huyện có điều kiện lựa chọn những loại giống có thời gian sinh trưởng hợp lý để gieo trồng.

Cây khoai lang diện tích gieo trồng ước đạt 1520 ha, bằng 82,16% so với cùng vụ năm ngoái, tập trung chủ yếu ở các huyện đồng bằng.  Cây rau đậu, hoa cây cảnh diện tích gieo trồng ước đạt 7000/12000 ha bằng 58,33% kế hoạch, giảm 2,78%. Hiện nay thời tiết do ảnh hưởng của mưa bão nên không thuận lợi cho việc gieo trồng.

Cây lạc diện tích gieo trỉa ước đạt 1570/1300 ha, bằng 120,77% kế hoạch, tăng 21,43% so với cùng kỳ năm trước. Lạc vụ này chủ yếu là giống lạc mới như L14, L23, L26, TB25 với mục đích làm giống cho vụ Xuân năm sau và tập trung ở các huyện Diễn Châu, Nghi Lộc, Đô Lương, Quỳnh Lưu, Nam Đàn,… Phần lớn diện tích lạc được gieo trồng trên đất vừng, đậu đã thu hoạch và được lên luống thoát nước và phủ ni lông.

Song song với gieo trồng các loại cây vụ Đông, bà con nông dân đang tập trung thu hoạch lúa mùa, đến thời điểm này đã thu hoạch được 60%, ngoài ra tập trung thu hoạch sắn, mía phục vụ nguyên liệu cho các nhà máy.

Tháng 10 thời tiết có mưa nhiều, độ ẩm cao thuận lợi cho việc trồng mới các loại cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả như chè, cao su, cam, dứa,…

b, Chăn nuôi:

Tổng đàn trâu tính đến thời điểm tháng 10/2016 ước đạt 290800 con, giảm 1,98% (-5876 con) so với cùng kỳ năm trước; tổng đàn bò ước đạt 440365 con, tăng 2,7% (+11583 con); tổng đàn lợn ước đạt 877499 con, giảm 5,12% (-47388 con); tổng đàn gia cầm ước đạt 20,85 triệu con, tăng 9% (+1721 nghìn con).

Tổng đàn trâu giảm do trồng trọt ngày càng được cơ giới hóa, người dân sử dụng máy móc để thay thế sức kéo của trâu, chăn nuôi bò hiệu quả cao hơn do đó người dân chuyển từ nuôi trâu sang nuôi bò hàng hóa. Đàn lợn giảm do hay xảy ra dịch bệnh, gây tâm lý lo ngại cho người dân cùng với giá cả thức ăn chăn nuôi tăng cao, lợi nhuận thấp, ảnh hưởng môi trường. Chăn nuôi gà phát triển vì là loại dễ nuôi, chi phí thấp, tận dụng được thức ăn sẵn có.

Trong tháng xảy ra dịch bệnh tụ huyết trùng trâu bò ở huyện Quỳ Châu làm chết nhiều trâu bò của người dân. Hiện nay thời tiết diễn biến phức tạp nguy cơ phát sinh và lây lan dịch, nhất là các dịch bệnh có thể lây sang người như H7N9. Các địa phương đang chủ động trong công tác phòng chống dịch, tăng cường kiểm soát và xử lý việc nhập lậu gia cầm, giám sát để phát hiện và xử lý kịp thời khi có dịch.

2, Sản xuất lâm nghiệp

Tháng 10 do có mưa nhiều, độ ẩm cao nên diện tích trồng rừng tập trung ước đạt 3130 ha đưa diện tích trồng rừng tập trung 10 tháng đầu năm 2016 ước đạt 15630 ha, tăng 0,35% so với cùng kỳ năm trước. Khoanh nuôi 75 ngàn ha, chăm sóc 37142 ha, đồng thời bảo vệ 942,51 ngàn ha rừng hiện có.

Sản lượng khai thác lâm sản 10 tháng đạt khá, gỗ các loại khai thác 366846 m3, tăng 17,43% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng gỗ khai thác tăng mạnh từ rừng trồng của các dự án, hộ dân sinh đã đến kỳ thu hoạch và làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như ván ép, dăm gỗ, nguyên liệu giấy và nhu cầu xây dựng; củi 1895,96 ngàn ste, giảm 0,73%; một số sản phẩm lâm sản khác như tre luồng, nứa hàng, song mây, lá dong, măng tươi, than, bông đót… 10 tháng khai thác đều tăng hơn cùng kỳ năm trước.

Công tác bảo vệ rừng thường xuyên được quan tâm, tuy nhiên do thời tiết nắng nóng nên từ đầu năm đến nay đã xảy ra 46 vụ cháy rừng ở các huyện Đô Lương, Thanh Chương, Diễn Châu, Nam Đàn, Hưng Nguyên,… với diện tích bị cháy 87,38 ha; Trong tháng 10 đã phát hiện và xử lý 77 vụ vi phạm lâm luật, trong đó: phá rừng 9 vụ; vi phạm chế biến gỗ và lâm sản khác 8 vụ; mua bán tàng trữ, vận chuyển lâm sản trái phép 46 vụ;… Các ngành chức năng đã tịch thu 111,56 m3 gỗ các loại; 21 con và 22 kg động vật rừng… thu nộp ngân sách 1161,5 triệu đồng, trong đó tiền phạt 457,7 triệu đồng.

3, Sản xuất thủy sản

 Nuôi trồng thủy sản: diện tích nuôi trồng thủy sản 10 tháng đầu năm 2016 ước đạt 20106 ha, tăng 0,2% (+41 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó diện tích nuôi trồng tôm sú ước đạt 26 ha; tôm thẻ chân trắng 1930 ha; diện tích nuôi cá và thủy sản khác 18150 ha.

Tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản trong tháng 10 ước đạt 13269 tấn, tăng 2,85% đưa 10 tháng đầu năm 2016 ước đạt 136657 tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản khai thác đạt 96747 tấn, tăng 4,43% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 39910 tấn, tăng 5,7%, trong đó sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 5061 tấn, tăng 5,44%. Sản lượng thủy sản tăng thấp hơn mức tăng của nhiều năm do trong kỳ Công ty Hưng nghiệp Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường nên cá đánh bắt khó tiêu thụ.

4, Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tỉnh Nghệ An tuy đang trên đà phục hồi nhưng chậm, chưa vững chắc và vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất cầm chừng. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 năm 2016 tăng 10,02% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 5,84%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,65%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 2,69%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 19,18%.

Một số sản phẩm chủ yếu trong tháng có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước như cá đóng hộp 589 tấn, tăng 68,29%; nước mắm 11,12 triệu lít, tăng 424,93%; mì tôm 4620 tấn, tăng 76,67%; thức ăn gia cầm 1860 tấn, tăng 21,89%; quần áo sơ mi 1489 ngàn chiếc, tăng 11,79%; cửa gỗ 6236 m2; tăng 90,94%; xi măng 222,9 ngàn tấn, tăng 52,96%; đá ốp lát 96,06 ngàn m2, tăng 10,12%; thép hợp kim 4600 tấn, tăng 79,69%; vỏ lon bia 930 tấn, tăng 13,28%; loa 14,0 triệu cái, tăng 16,96%; nước máy 2,71 triệu m3, tăng 13,69%. Tuy nhiên bên cạnh đó có nhiều sản phẩm chủ yếu có mức tăng thấp và nhiều giảm sút như sữa chua giảm 3,2%; thuốc lá giảm 6,52%; vỏ bảo, dăm gỗ giảm 24,87%; phân NPK giảm 17,09%.

Công dồn 10 tháng đầu năm 2016 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 14,75%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,33%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,16%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,82%.

 Mười tháng đầu năm 2016 một số sản phẩm chủ yếu có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước như cá đóng hộp 3919 tấn, tăng 476,26%; nước mắm 82,53 triệu lít, tăng 289,66%; sữa chua 18,38 ngàn tấn, tăng 13,45%; mì tôm 39,3 ngàn tấn, tăng 343,95%; thức ăn gia súc, gia cầm 157,34 ngàn tấn, tăng 9,72%; sợi 14,58 ngàn tấn, tăng 15,86%; quần áo sơ mi 12,24 triệu chiếc, tăng 14,48%; cửa gỗ 45,87 ngàn m2, tăng 21,25%; ống nhựa tiền phong 13,17 ngàn tấn, tăng 12,29%; gạch granite 2276 ngàn m2, tăng 12,84%; xi măng 1813,4 ngàn tấn, tăng 23,42%; thép hợp kim 38,67 ngàn tấn, tăng 156,34%; điện thương phẩm 2194 triệu kwh, tăng 13,91%; còn lại các sản phẩm khác có mức tăng thấp hơn và nhiều sản phẩm chủ yếu giảm như đường tinh luyện giảm 15,91%; bia chai giảm 1,93%; đá ốp lát giảm 8,71%. Điện sản xuất 1852 triệu kwh, tăng 2,09% do trong năm hạn hán kéo dài, mực nước xuống thấp không đủ nước để máy chạy hết công suất.

5, Đầu tư, xây dựng

10 tháng đầu năm 2016 mặc dù hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng vẫn đang gặp nhiều khó khăn nhất là việc giải ngân các nguồn vốn, tiêu thụ sản phẩm, nợ xấu nhưng đã có bước phục hồi. Do đó vốn đầu tư phát triển tháng 10/2016 thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 482,43 tỷ đồng, đưa 10 tháng đầu năm ước đạt 4571,56 tỷ đồng, tăng 13,53% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1829,62 tỷ đồng, tăng 13,23%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 1670 tỷ đồng, tăng 13,83% và cấp xã 1071,96 tỷ đồng, tăng 13,57%. Vốn đầu tư thực hiện trong kỳ chủ yếu tập trung vào các công trình chuyển tiếp như đường giao thông Ngọc Lam Bồi; đường giao thông vào xã Nghĩa Hòa (Thái Hòa); dự án cấp lưới điện nông thôn các huyện miền núi; dự án thủy lợi Bắc Nghệ An; Khu đô thị và khu hành chính thị xã Hoàng Mai; đường KCN Hoàng Mai II đến Nhà máy xi măng Tân Thắng; đường nối Khu di tích Gốc đến Chùa Chí Linh (Yên Thành); Nâng cấp mở rộng đường Sào Nam (Cửa Lò); Cầu Tây Bàu Sen (Cửa Lò); dự án cấp nước thô cho nhà máy nước Vinh; đường N5, D4 KKT Đông Nam; đập Bầu Gáo và Khe Ve (Diễn Châu); dự án đô thị Thành phố Vinh; bệnh viện đa khoa Nghệ An giai đoạn 2;…

6, Thu chi ngân sách

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh 10 tháng đầu năm 2016 ước đạt 8313,63 tỷ đồng, bằng 80,86% dự toán cả năm và tăng 23,57% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nội địa ước đạt 7596,83 tỷ đồng, bằng 84,47% dự toán và tăng 27,32%. Nhiều khoản thu so với cùng kỳ năm trước tăng khá như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 252,14 tỷ đồng, bằng 90,05% dự toán và tăng 16,34%; khu vực CTN ngoài quốc doanh 3139,1 tỷ đồng, bằng 81,54% dự toán và tăng 16,05%; thu lệ phí trước bạ 575,2 tỷ đồng, bằng 95,87% dự toán và tăng 15,48% chủ yếu do tăng lệ phí trước bạ ô tô; thu thuế bảo vệ môi trường 625,24 tỷ đồng, bằng 109,69% dự toán và tăng 96,6%; thu tiền sử dụng đất 1332,36 tỷ đồng, bằng 88,82% dự toán và tăng 103,83%; thu cấp quyền khai thác khoáng sản 70,78 tỷ đồng, bằng 89,59% dự toán và tăng 59,94%. Tuy nhiên có một số khoản thu đạt thấp so với cùng kỳ như thu từ doanh nghiệp địa phương giảm 9,41%; thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước giảm 18,8% và Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu chỉ đạt khoảng 703 tỷ đồng, bằng 55,35% dự toán và giảm 6,08%.

Tổng chi ngân sách 10 tháng ước đạt 16575,53 tỷ đồng, bằng 83,13% dự toán. Trong đó chi đầu tư phát triển 4825 tỷ đồng, bằng 86,67% dự toán; chi thường xuyên 11585,53 tỷ đồng, bằng 82,27% dự toán. Các khoản chi quan trọng trong chi thường xuyên đều bảo đảm như: Chi sự nghiệp kinh tế 1256,9 tỷ đồng, bằng 82,43% dự toán; chi sự nghiệp giáo dục đào tạo 4965,76 tỷ đồng, bằng 81,5% dự toán; chi sự nghiệp y tế 1183,5 tỷ đồng, bằng 83,67% dự toán; chi đảm bảo xã hội 650,6 tỷ đồng, bằng 88,95% dự toán và chi quản lý hành chính 2215 tỷ đồng, bằng 82,97% dự toán…

7, Thương mại, giá cả

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 10/2016 theo giá hiện hành ước đạt 3587,2 tỷ đồng, tăng 9,95% so với cùng tháng năm trước đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa 10 tháng đầu năm 2016 ước đạt 35617,9 tỷ đồng, tăng 9,99% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó thành phần kinh tế tư nhân 14548 tỷ đồng, tăng 12,42%; thành phần kinh tế cá thể 18572 tỷ đồng, tăng 8,36%, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 334 tỷ đồng, tăng 7,8%. Chia theo nhóm hàng bán lẻ thì nhóm lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất với doanh thu trong kỳ ước đạt 10517,2 tỷ đồng (chiếm 29,53% tổng số), tăng 7,98% so với cùng kỳ năm trước; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 4522,9 tỷ đồng, tăng 9,55%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng 2679,5 tỷ đồng, tăng 7,05%; ô tô các loại 5932 tỷ đồng, tăng 22,28%; xăng dầu 3332,8 tỷ đồng, tăng 7,95%.... Nếu loại trừ ảnh hưởng của tăng giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa 10 tháng còn tăng 7,22%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tháng 10/2016 ước đạt 443,7 tỷ đồng, giảm 5,44% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 10 tháng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 4546,5 tỷ đồng, giảm 5,05% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống 10 tháng giảm do Công ty TNHH Hưng nghiệp gang thép Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường, làm cho tâm lý người dân đi du lịch, nghỉ mát ở Cửa Lò và các huyện ven biển ít hơn mọi năm. Trong đó dịch vụ lưu trú phục vụ 2902 ngàn lượt khách, giảm 4,86% so với cùng kỳ năm trước (1841,1 ngàn lượt khách ngủ qua đêm) với doanh thu lưu trú 588,2 tỷ đồng, giảm 5,97%; dịch vụ ăn uống 3912,3 tỷ đồng, giảm 5,0%; dịch vụ du lịch lữ hành 46 tỷ đồng, tăng 3,57%. Doanh thu hoạt động dịch vụ khác 10 tháng ước đạt 3549 tỷ đồng, tăng 10,5%, trong đó kinh doanh bất động sản 1507,7 tỷ đồng, tăng 8,79%; dịch vụ hành chính 655,9 tỷ đồng, tăng 13,33%; dịch vụ y tế 386,9 tỷ đồng, tăng 19,17%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí 280,3 tỷ đồng, tăng 14,92%;…

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 10/2016 ước đạt 61,1 triệu USD, tăng 31,61% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng đầu năm giá trị xuất khẩu hàng hóa ước đạt 446,8 triệu USD, tăng 11,95% so với 10 tháng năm 2015. Trong đó thành phần kinh tế tư nhân xuất được 317,1 triệu USD, tăng 17,29%; thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 123,8 triệu USD, tăng 5,83%. Một số mặt hàng chủ yếu trong 10 tháng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: hàng rau quả xuất được 30,75 triệu USD, tăng 90,6%; chè búp khô 5,9 triệu USD, tăng 29,56%; hạt tiêu 2,84 triệu USD, tăng 93,82; dăm gỗ 84,11 triệu USD, tăng 17,09%; xơ, sợi, dệt 17,26 triệu USD, tăng 30,66%; hàng dệt may 113,1 triệu USD, tăng 54,08%; kim loại thường 3,6 triệu USD, tăng 48,31%. Tuy nhiên nhiều sản phẩm chủ yếu có kim ngạch xuất khẩu giảm như sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 55,21%; điện thoại và linh kiện giảm 17,66%...

Kim ngạch nhập khẩu tháng 10 ước đạt 51,2 triệu USD tăng 23,83% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2016 kim ngạch nhập khẩu ước đạt 388,1 triệu USD, tăng 20,02% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó thành phần kinh tế tư nhân có mức tăng khá. Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu 10 tháng tăng khá như: nguyên phụ liệu dược phẩm 1,28 triệu USD, tăng 19,86%; phân bón các loại 2,46 triệu USD, tăng 38,5%; vải các loại 24,58 triệu USD, tăng 109,73%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 168,15 triệu USD, tăng 165,5%;... Tuy nhiên trong kỳ nhiều mặt hàng chủ yếu có giá trị nhập khẩu giảm sút như chất dẻo nguyên liệu; gỗ và sản phẩm từ gỗ; giấy và sản phẩm từ giấy; bông các loại; nguyên phụ liệu dệt, may, da giày; kim loại thường; điện thoại và linh kiện;…

Giá cả thị trường: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2016 giảm 0,13% so với tháng trước, tăng 2,73% so với tháng 12/2015 và tăng 2,97% so với cùng kỳ năm trước. Có 8/11 nhóm hàng hóa dịch vụ so với tháng trước có chỉ số giá tăng nhưng mức tăng thấp, trong đó tăng nhiều nhất là nhóm giao thông tăng 0,70% do trong kỳ 2 lần tăng giá xăng, dầu (ngày 19/8 và 5/9); tăng mạnh thứ hai là nhóm may mặc, mũ nón, giày dép với mức tăng 0,52% do đầu năm học mới nhu cầu mua sắm quần áo mới cho học sinh tăng; 3/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm với mức giảm từ 0,13% đến 0,63%.

Giá vàng biến động thất thường, so với tháng trước chỉ số giá vàng giảm 0,88%, so với tháng 12/2015 tăng 9,64% , so với cùng kỳ tăng 5,14%; chỉ số đô la Mỹ tăng 0,08% so với tháng trước và giảm 1,98% so với tháng 12/2015 và giảm 1,4% cùng kỳ năm trước.

Tính bình quân 9 tháng năm 2016 chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,58% so với 9 tháng năm 2015, chỉ số giá tăng cao ở các nhóm thuốc và dịch vụ y tế với mức tăng 27,34% do điều chỉnh giá dịch vụ khám chữa bệnh theo Thông tư liên tịch số 37/TTLT-BTC-BYT của Bộ Y tế, Bộ Tài chính; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 4,69%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,66%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,28%;…

8, Vận tải

Khối lượng vận chuyển hành khách tháng 10 ước đạt 4729,7 ngàn lượt khách và 405,3 triệu lượt khách.km, trong đó chủ yếu là vận tải đường bộ. So với cùng kỳ năm trước khối lượng hành khách vận chuyển tăng 6,58%, luân chuyển tăng 4,11%. So với tháng 9 vận tải hành khách giảm 3,88% lượt khách và giảm 4,0% lượt khách.km do tháng 9 nhân dân đi lại nhiều và học sinh, sinh viên đến ngày tựu trường. Tính chung 10 tháng khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 53,95 triệu lượt khách, tăng 8,61% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 4542,06 triệu lượt khách.km, tăng 8,85%.

Vận tải hàng hóa tháng 10/2016 ước đạt 4834,4 ngàn tấn và 198,3 triệu tấn.km. So với tháng 10/2015 khối lượng vận chuyển hàng hóa tăng 6,18%, khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 1,64%. Tính chung 10 tháng đầu năm khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 46,05 triệu tấn, tăng 7,51% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hàng hóa 2117,76 triệu tấn.km, tăng 6,72%. Khối lượng vận chuyển và luân chuyển hàng hóa kỳ này tăng khá chủ yếu do ngành xây dựng có khởi sắc nên khối lượng vận chuyển vật liệu xây dựng tăng khá.

Doanh thu vận tải, bốc xếp tháng 10 ước đạt 515,8 tỷ đồng đưa doanh thu 10 tháng ước đạt 5678,8 tỷ đồng, tăng 1,64% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu vận tải hàng hóa 3904,3 tỷ đồng, tăng 0,54%; doanh thu vận tải hành khách 1206 tỷ đồng, tăng 4,35% và doanh thu bốc xếp, dịch vụ vận tải 568,5 tỷ đồng, tăng 3,73%. Doanh thu vận tải tăng thấp do trong kỳ giá xăng dầu xuống và đứng ở mức thấp làm cho cước vận tải giảm.

9, Một số vấn đề xã hội

a. Thiếu đói trong dân cư

Tính đến thời điểm 12/10/2016 trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 870 hộ thiếu đói với 3606 khẩu chiếm 0,12% tổng số khẩu, không có hộ thiếu đói gay gắt. Số hộ thiếu đói kỳ này chỉ xẩy ra ở các huyện mền núi cao như: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu. So với tháng trước số hộ thiếu đói tăng 72,96% (+367 hộ) nhưng so với cùng kỳ năm trước số hộ thiếu đói giảm 27,8% (- 335 hộ).

Nguyên nhân thiếu đói kỳ này tăng hơn tháng trước do một bộ phận đồng bào vùng núi cao, vùng dân tộc chủ yếu trồng lúa rãy, thiếu đất sản xuất, thiếu vốn, trình độ sản xuất thấp kém, mưa lũ nên tình trạng thiếu đói vẫn diễn ra. Dự tính thời gian tới số hộ, số người thiếu đói sẽ giảm do bà con nông dân thu hoạch vụ mùa.

b. Dịch bệnh

Trong kỳ từ ngày 10/9/2016 đến 10/10/2016 trên địa bàn toàn tỉnh đã xẩy ra 1174 ca tiêu chảy ở các huyện: Quế Phong 198 ca, Kỳ Sơn 138 ca, Tương Dương 139 ca, Diễn Châu 131 ca, Hưng Nguyên 109 ca,...; Sốt rét xảy ra 28 ca ở Kỳ Sơn, Quỳ Hợp, Thanh Chương và Diễn Châu…; Nguyên nhân xảy ra sốt rét do mưa nhiều, độ ẩm cao, muỗi phát triển nhanh và lây lan từ vùng này sang vùng khác, ngành Y tế đã tập trung điều trị kịp thời cho những bệnh nhân nhập viện và chỉ đạo các địa phương tích cực phun thuốc diệt muỗi, dọn vệ sinh môi trường.

Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Đến ngày 31/8/2016 số người bị nhiễm HIV được phát hiện trên toàn tỉnh là 10666 người, trong đó có 8427 người trong tỉnh. Căn bệnh HIV đã xảy ra ở 440/480 xã/phường/thị trấn của 21 huyện/thành phố/thị xã, nhiều nhất là thành phố Vinh 2008 người, Quế Phong 1337 người, huyện Tương Dương 987 người, Quỳ Châu 648 người, Đô Lương 419 người, Diễn Châu 402 người, Thái Hòa 339 người, Thanh Chương 336 người, Quỳ Hợp 282 người, Con Cuông 280 người,... Đối tượng nhiễm HIV chủ yếu là nam giới (83,15%), có độ tuổi từ 20-39 tuổi (85,84%) và tiêm chích ma túy (82,21%). Trong tổng số người nhiễm HIV đã có 6483 người chuyển sang bệnh AIDS (trong tỉnh 5721 người, ngoài tỉnh  762 người) và đã tử vong 3537 người. So với cùng kỳ năm trước số người nhiễm HIV tăng 566 người (+5,6%), số người bị AIDS tăng 524 người (+8,79%), số người bị chết do AIDS tăng 137 người (+4,03%).

c. Trật tự an toàn xã hội

Tính từ 10/9/2016 đến 10/10/2016 trên địa bàn tỉnh xảy ra 63 vụ, bắt giữ 72 đối tượng phạm pháp kinh tế chủ yếu là buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu thu giữ 1840 bao thuốc lá, 6 tấn đường, 500kg nhộng tằm, 50 con lợn, 5180 con gia cầm, 1300 kg nội tạng động vật, 2851 súng, dao, kiếm nhựa do TQ sản xuất và nhiều hàng hóa khác… tổng giá trị khoảng 980 triệu đồng. So với tháng trước tăng 6 vụ tăng 11 đối tượng và so với cùng kỳ năm trước tăng 36 vụ tăng 37 đối tượng.

Phạm pháp hình sự xẩy ra 111 vụ với 151 đối tượng chủ yếu là trộm cắp, cướp giật tài sản công dân làm mất 3 xe máy, 7 máy tính xách tay, 8 điện thoại di động và nhiều tài sản khác trị giá 520 triệu đồng. So với tháng trước giảm 12 vụ, giảm 25 đối tượng và so với cùng kỳ năm trước giảm 16 vụ và giảm 57 đối tượng.

Trong tháng xẩy ra 35 vụ 41 đối tượng buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma tuý, thu giữ 2 bánh, 125,22 gam hêrôin, 12,71 gam ma túy đá, 1,2 gam cần sa, 780 viên ma túy tổng hợp. Trong đó: Thành phố Vinh 14 vụ 14 đối tượng; ; Kỳ Sơn 3 vụ 7 đối tượng; Tương Dương 4 vụ 6 đối tượng; Thanh Chương 3 vụ 3 đối tượng;... So với tháng trước tăng 11 vụ, tăng 23 đối tượng và so với cùng kỳ năm trước tăng 19 vụ, tăng 30 đối tượng.

Trong tháng phát hiện 21 vụ 31 đối tượng sử dụng ma túy. Trong đó: Thành phố Vinh 5 vụ 5 đối tường; Thị xã Cửa Lò 3 vụ 4 đối tượng; Thị xã Thái Hòa 3 vụ 4 đối tượng; Quỳnh Lưu 6 vụ 10 đối tượng,... Phát hiện 5 vụ 8 đối tượng mua bán dâm. So cùng kỳ năm trước sử dụng ma túy giảm 28 vụ, giảm 43 đối tượng; hoạt động mại dâm tăng 1 vụ, giảm 4 đối tượng.

Trong kỳ xẩy ra 42 vụ tai nạn giao thông, làm chết 18 người, bị thương 46 người, ước giá trị thiệt hại 759 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 11 vụ, số người chết tăng 4 người (+28,57%), số người bị thương tăng 11 người (+31,43%). So với tháng trước tăng 6 vụ, số người chết tăng 4 người và số người bị thương tăng 8 người.

Ngoài ra trong tháng còn xảy ra 2 vụ cháy làm thiệt hại khoảng 465 triệu đồng; phát hiện 40 vụ đánh bạc với 89 đối tượng tham gia thu giữ 32 triệu đồng và một số vật dụng khác./.

Tác giả bài viết: Thái Bá Minh, Cục Thống kê Nghệ An

Nguồn tin: